Các thuốc điều trị ung thư Gần 80 năm qua, kể từ khi thuốc điều trị ung thư hiện đại đầu tiên Nitro...

 Các thuốc điều trị ung thư
Gần 80 năm qua, kể từ khi thuốc điều trị ung thư hiện đại đầu tiên Nitrogen mustard được phát kiến điều trị ung thư hệ thống hạch bạch huyết ( lymphoma ) đã có thêm hàng ngàn loại thuốc điều trị ung thư ra đời với cơ chế tác dụng khác nhau. Càng giai đoạn về sau số lượng thuốc mới càng nhiều, tốc độ đưa vào ứng dụng lâm sàng càng nhanh, với cơ chế chủ yếu là tác động vào cấp độ gen, sinh học phân tử của ung thư hay còn gọi là thuốc chuẩn xác (Precision Medicine). Đặc biệt trong 1-2 thập niên gần đây các tiến bộ mới này đã làm hoàn toàn thay đổi diện mạo về kiểm soát căn bệnh ung thư. Mặc dù có hàng ngàn loại thuốc khác nhau, nhưng có thể chia các thuốc điều trị ung thư vào 4 nhóm chính:
1. Điều trị hoá chất ( Chemotherapy ):
Tế bào ung thư sinh sản rất nhanh còn tế bào bình thường sinh sản chậm hơn. Các thuốc hoá trị (chemotherapeutic drug) tác động ở cấp độ tế bào, có thể ngăn chặn hoặc kìm hãm các tế bào ung thư sinh sản phát triển. Do vậy các thuốc hoá trị còn gọi là thuốc gây độc tế bào ( cytotoxic agent ). Một số nhóm thuốc hoá trị chính: các thuốc alkyl hoá (Platinum, Cyclophosphamide, Ifosfamide); các thuốc Platinum (Cisplatin, Carboplatin, Oxaliplatin); các kháng sinh chống u (Doxorubicin, Epirubicin, Liposomal Doxorubicin, Bleomycin); các chất chống chuyển hoá (5 FU, Capecitabine, Methotrexat, Pemetrexed, Gemcitabine ); các Alkaloide (Vincristin, Vinorelbine, Etoposide ); các Taxane (Paclitaxel, Docetaxel); các Camptothecin (Topotecan, Irinotecan) . Tất cả các nhóm thuốc này đều tác động vào một trong nhiều khâu của quá trình nguyên phân ( nhân đôi tế bào ), làm ức chế quá trình này dẫn tới làm cho tế bào không thể sinh sản được hoặc có sinh sản thì cũng thành hai tế bào bất thường rồi tự chết.
2. Điều trị nội tiết (Hormone Therapy): Một số loại ung thư hình thành và phát triển phụ thuộc vào các nội tiết tố (hormone) của cơ thể điển hình là ung thư vú và tiền liệt tuyến. Do vậy các thuốc ức chế sản xuất hoặc hoạt động của các nội tiết tố này có thể kìm hãm sự phát triển của ung thư. Theo cơ chế có 2 nhóm thuốc nội tiết chính là nhóm ức chế cơ thể sản xuất và nhóm thuốc ức chế hoạt động của các hormone này. Ví dụ nội tiết tố nữ estrogen có thể làm tăng sinh ung thư vú. Dùng các thuốc ngăn chặn tổng hợp estrogen ( Aromatase inhibitors như anastrozole, letrozole , exemestane hay đồng vận LHRH như Goserelin ) hay các thuốc ngăn chặn tác động của estrogen ( tamoxifen, fulvestrant ) có thể ngăn chặn, làm chậm tiến triển của ung thư vú. Tuy nhiên không phải tế bào ung thư vú nào cũng có thụ thể estrogen nên chỉ đối với những khối u có chứa tế bào có thụ thể estrogen mới bị estrogen kích thích phát triển. Các bác sĩ giải phẫu bệnh sẽ xét nghiệm hoá mô miễn dịch để xác định khối u có chứa thụ thể estrogen hay không.
3. Điều trị nhắm đích (Targeted Therapy):
Trong tế bào ung thư có hệ thống gồm một chuỗi phản ứng nhiều phân tử hoạt động theo mô hình dây truyền (oncogenic driver ), định hướng thúc đẩy phát triển ung thư. Khi có một mắt xích nào đó trong dây truyền này khi bị kích thích, hệ thống sẽ hoạt động rất mạnh mẽ kích thích ung thư tiến triển, di căn. Các thuốc điều trị nhắm đích ức chế các phân tử đặc hiệu trong hệ thống dẫn truyền tín hiệu dẫn đến sự phân chia, tiến triển và di căn ung thư. Có 2 nhóm thuốc điều trị đích chính là các kháng thể đơn dòng ( monoclonal antibody mab ) nhắm vào các đích đặc hiệu bên ngoài bề mặt tế bào và các thuốc phân tử nhỏ (small-molecule drugs, inhibitor ib ) nhắm vào các đích bên trong tế bào. Ví dụ trong ung thư phổi EGFR (epithelial growth factor receptor) là một thụ thể nằm ở màng tế bào ung thư, khi gen quy định thụ thể này bị đột biến thì EGFR trở nên hoạt động mạnh mẽ, kích hoạt một chuỗi phản ứng từ ngoài màng tế bào vào trong nhân, dẫn đến ung thư tiến triển, di căn. Các thuốc phân tử nhỏ Gefitinib ( Iressa ), Erlotinib ( Tarceva ) ức chế EGFR có làm ngặn chặn sự phát triển của tế bào ung thư.
Trong điều trị nhắm đích có một thuốc có cơ chế tác động khá đặc biệt là kháng sinh mạch. Các tế bào ung thư để tồn tại và tiến triển, cần chất dinh dưỡng và O2 cung cấp từ các mạch máu. Hơn nữa mạch máu là con đường di căn ung thư quan trọng. Để có nhiều mạch máu, tế bào ung thư tiết ra các chất kích thích sinh mạch có tên là VEGF (Vascular Endothelial Growth Factor). VEGF sẽ tìm đến các thụ thể của chúng là VEGFR ở tế bào nội mạc mạch máu để kích thích quá trình sinh mạch. Việc loại bỏ VEGF hoặc ngăn chặn dẫn truyền tín hiệu tại thụ thể VEGFR sẽ làm ngưng quá trình sinh mạch. Ví dụ Bevacizumab là một loại kháng thể đơn dòng gắn và làm bất hoạt VEGF được dùng trong điều trị ung thư đại trực tràng, phổi và vú.
4. Điều trị miễn dịch (immunotherapy):
Tế bào ung thư cũng là tế bào của chính cơ thể nhưng đã bị đột biến gen trở thành tế bào bất thường. Điều trị miễn dịch là phương thức hỗ trợ hệ thống miễn dịch nhận ra các tế bào ung thư như kháng nguyên lạ, kích thích đáp ứng miễn dịch diệt tế bào u, ngăn chặn quá trình ức chế miễn dịch cho phép dung nạp sự tăng sinh khối u thông qua một chuỗi đáp ứng sinh học miễn dịch tế bào và dịch thể. Các nhóm thuốc điều trị miễn dịch bao gồm: các kháng thể đơn dòng, các Cytokines ( interferons và interleukins ), các Vaccines ( BCG ), liệu pháp tăng cường các tế bào miễn dịch Tại bệnh viện K đang thử nghiệm điều trị thuốc kháng thể đơn dòng anti-idiotype (Ab2 mAb) Racotumomab, gây đáp ứng đặc hiệu kháng nguyên, kích hoạt hệ thống miễn dịch chống lại kháng nguyên ung thư ganglioside.
Như vậy có 4 phương thức chính điều trị ung thư bằng thuốc là hoá trị, nội tiết, điều trị đích và miễn dịch. Tại Bệnh Viện K Trung Ương đã và đang ứng dụng điều trị hiệu quả, phù hợp với điều kiện Việt Nam tất cả các phương thức này, giúp cải thiện tỉ lệ đáp ứng, thời gian sống thêm và chất lượng cuộc sống, góp phần cứu chữa hàng tram nghìn người bệnh.

Các thuốc điều trị ung thư Gần 80 năm qua, kể từ khi thuốc điều trị ung thư hiện đại đầu tiên Nitro...