Giun chỉ bạch huyết là bệnh nhiễm ký sinh trùng gây ra bởi các loài giun chỉ Wuchereria bancrofti, Brugia malayi hoặc Brugia timori. Bệnh rất phổ biến ở các nước nhiệt đới và cận nhiệt đới. Ở Việt Nam gặp 2 loại là Brugia malayi và Wuchereria bancrofti, trong đó Brugia malayi chiếm đa số (> 90%). Bệnh giun chỉ phân bố chủ yếu ở các vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng như tỉnh Hưng Yên, Thái Bình, Hà Nam, Nam Định… Bệnh được truyền từ người này sang người khác qua muỗi đốt và phát triển thành giun trưởng thành trong hệ bạch huyết của cơ thể, gây nên các tổn thương và sưng phồng tổ chức. Bệnh phù chân voi là dấu hiệu kinh điển trong giai đoạn muộn của bệnh, biểu hiện đau, biến dạng chi thể và cơ quan sinh dục. Nhiễm giun chỉ có thể điều trị bằng thuốc. Tuy nhiên ở giai đoạn muộn còn đòi hỏi một số biện pháp điều trị khác như phẫu thuật, chăm sóc da, tập thể dục để tăng dẫn lưu bạch huyết trong trường hợp có phù. Bệnh giun chỉ bạch huyết là bệnh do nhiễm ký sinh trùng thuộc họ Filariodidea, có 3 loại giun chỉ giống như sợi chỉ là Wuchereria bancrofti, Brugia malayi hoặc Brugia timori. Wuchereria bancrofti gây bệnh trong 90% các trường hợp, Brugia malayi gây ra hầu hết các ca bệnh còn lại và B.timori cũng gây bệnh. Chu kỳ phát triển của giun chỉ bạch huyết: Chu kỳ phát triển của giun chỉ bạch huyết bao gồm 2 giai đoạn: giun chỉ ký sinh trong cơ thể người và ký sinh trong cơ thể muỗi. Trong đó người là ký chủ vĩnh viễn, muỗi là ký chủ trung gian. Trong cơ thể người: Trong cơ thể muỗi: Đa số bệnh nhân nhiễm giun chỉ bạch huyết không có biểu hiện lâm sàng trong nhiều năm, có khi là cả đời. Bệnh thường trải qua 3 thời kỳ sau: Muỗi là trung gian truyền bệnh. Một số loại muỗi có khả năng truyền bệnh giun chỉ bạch huyết: Các yếu tố làm tăng nguy cơ mắc bệnh giun chỉ: Phát hiện và điều trị người mang bệnh là biện pháp chủ yếu. Phát hiện bệnh sớm và điều trị triệt để, điều trị hàng loạt là biện pháp kinh tế nhất giúp phòng chống bệnh giun chỉ Chẩn đoán bệnh giun chỉ dựa vào dịch tễ, lâm sàng và xét nghiệm. Chẩn đoán xác định bệnh dựa vào xét nghiệm tìm ấu trùng giun chỉ trong máu ngoại biên. Một số phương pháp xét nghiệm giun chỉ trong máu ngoại vi: Phương pháp xét nghiệm máu ngoại vi vào ban đêm: phổ biến nhất. Lấy máu vào ban đêm khoảng từ 20 giờ đến 2 giờ sáng hôm sau. Soi dưới kính hiển vi phát hiện ấu trùng giun chỉ. Phương pháp Knote: Lấy 2 ml máu vào ống nghiệm có chứa 10 ml Formalin 2%, quay ly tâm lấy cặn, làm tiêu bản máu giọt dày, nhuộm Giemsa, soi dưới kính hiển vi phát hiện ấu trùng giun chỉ. Phương pháp Harris: Lấy 4 ml máu vào ống nghiệm có 1 ml heparin, 4 ml saponin 2% rồi quay ly tâm, quan sát phát hiện ấu trùng giun chỉ ở phần cặn lắng Xét nghiệm nước tiểu: bệnh nhân tiểu dưỡng chấp có thể phát hiện ấu trùng giun chỉ trong nước tiểu. Phụ thuộc vào triệu chứng lâm sàng và thời kỳ mắc bệnh Nhiễm giun chỉ có ấu trùng trong máu, không có triệu chứng lâm sàng: dùng thuốc đặc hiệu theo phác đồ. Điều trị nhiễm giun chỉ có ấu trùng trong máu, thời kỳ cấp tính: Nhiễm giun chỉ bị phù chân voi: Chế độ dinh dưỡng: Tổng quan bệnh Giun chỉ
Nguyên nhân bệnh Giun chỉ
Triệu chứng bệnh Giun chỉ
Thời kỳ ủ bệnh:
Thời kỳ cấp tính:
Thời kỳ mạn tính:
Đường lây truyền bệnh Giun chỉ
Đối tượng nguy cơ bệnh Giun chỉ
Phòng ngừa bệnh Giun chỉ
Vệ sinh môi trường:
Vệ sinh cá nhân:
Các biện pháp chẩn đoán bệnh Giun chỉ
Các biện pháp điều trị bệnh Giun chỉ